Bệnh glôcôm là gì?
Trong tiếng Hy Lạp, tên gốc của bệnh glôcôm (glaucoma) là glaukos nghĩa là con mắt màu xanh (lúc này chưa phân biệt được giữa bệnh glôcôm và đục thủy tinh thể). Tên dân gian của bệnh là thiên đầu thống (miền Bắc) hoặc cườm nước (miền Nam) và phân biệt với bệnh cườm khô (đục thủy tinh thể theo tiếng miền Nam).
Bệnh đặc trưng bởi sự chết dần của tế bào hạch võng mạc (khởi nguồn của thần kinh thị giác để dẫn tín hiệu hình ảnh từ mắt về não bộ) dưới ảnh hưởng của nhãn áp cao, dao động nhãn áp hoặc thiểu năng tuần hoàn do bệnh lý mạch máu.
Bệnh được chẩn đoán khi bệnh nhân có 2/3 triệu chứng: tăng nhãn áp, tổn hại thần kinh thị giác, thu hẹp thị trường.
Về bản chất, glôcôm là một dạng bệnh lý củathần kinh thị giác có hoặc không liên quan với tăng nhãn áp. Do vậy, nhiều trường hợp bệnh nhân không đau nhức mắt do tăng nhãn áp những vẫn có bệnh glôcôm. Đây là một phần lý do khiến glôcôm trở thành kẻ cắp thị giác thầm lặng.
Tại sao có hiện tượng tăng nhãn áp?
Nhãn áp phụ thuộc chủ yếu vào lượng thủy dịch được sản xuất bên trong nhãn cầu. Bình thường, thủy dịch tiết ra sẽ đi từ mặt sau mống mắt (phần chứa màu sắc của mắt) qua lỗ đồng tử (phần điều tiết lượng ánh sáng vào mắt) ra phần trước của nhãn cầu. Từ đây dịch sẽ đi qua một cấu trúc gọi là góc tiền phòng để đi ra khỏi nhãn cầu (Hình 2A). Nếu góc này đóng sẽ tạo ra bệnh glôcôm góc đóng (Hình 2C). Ngược lại, nếu góc mở nhưng tăng trở ngại ở vùng góc khiến dịch không ra ngoài được sẽ tạo ra bệnh glôcôm góc mở (Hình 2B). Bệnh glôcôm có thể là nguyên phát do bất thường cấu trúc mắt có từ lúc sinh hoặc thứ phát sau một bệnh lý khác của mắt.
Bệnh Glôcôm nguy hiểm như thế nào?
Glôcôm là bệnh lý tiến triển mạn tính, không hồi phục và hiện tại chưa có cách điều trị triệt để, chỉ có thể kiểm soát để làm chậm tiến triển của bệnh.
Trừ trường hợp biểu hiện cấp tính do nhãn áp tăng cao đột ngột, đa phần bệnh glôcôm diễn biến thầm lặng gây mất dần thị trường, thị lực. Từ đó ảnh hưởng tới công việc, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Người làm các công việc cần trường quan sát tốt như lái xe, phi công nếu bị bệnh glôcôm sẽ rất nguy hiểm cho chính họ và những người liên quan.
Người lớn tuổi bị bệnh glôcôm dễ vấp ngã khi đi lại trong nhà, leo cầu thang,… dẫn tới tổn thương xương, khớp phải nằm/bất động lâu.
Bệnh glôcôm có phổ biến?
Tỉ lệ bệnh glôcôm trong quần thể những người từ 40 – 80 tuổi là 3.54%.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) glôcôm là 1 trong 3 nguyên nhân gây mù lòa hàng đầu bên cạnh đục thủy tinh thể và tật khúc xạ trên quy mô toàn cầu.
Ở Việt Nam, theo báo cáo điều tra phòng chống mù lòa năm 2007: trên tổng số 409.200 người mù 2 mắt (chiếm 1.3% dân số), glôcôm (6.5%) đứng thứ 3 sau đục thủy tinh thể (16.5%) và các bệnh lý võng mạc (16.5%).
Chẩn đoán bệnh glôcôm
Để chẩn đoán bệnh glôcôm, người bệnh cần đến cơ sở y tế có chuyên khoa Mắt để được thăm khám toàn diện. Bệnh nhân sẽ trải qua một quy trình từ thử thị lực, đo nhãn áp, các thăm dò chức năng, đánh giá tổng thể nửa trước và nửa sau nhãn cầu. Sau đó, bệnh nhân sẽ được làm các xét nghiệm chuyên sâu để phát hiện tổn thương thần kinh thị giác cũng như thu hẹp thị trường.
Tổn thương thị trường và thần kinh thị giác có thể gặp trong nhiều bệnh. Tuy nhiên trong glôcôm, tiến triển của hai loại tổn thương này rất âm thầm, người bệnh thường không tự nhận biết được cho đến khi đã ở giai đoạn muộn, ảnh hưởng nhiều đến chức năng thị giác và chất lượng cuộc sống thì mới đi khám.
Điều trị bệnh glôcôm thế nào?
Nguyên tắc chung
Cách điều trị duy nhất bệnh glôcôm cho tới thời điểm hiện tại là hạ nhãn áp. Có hai mức nhãn áp: không gây đau và an toàn.
Nhãn áp an toàn (nhãn áp đích)
Là mức áp lực trong nhãn cầu mà ở đó bệnh nhân không có cảm giác đau nhức đồng thời tiến triển của bệnh được kiểm soát tối đa; thị lực, thị trường được bảo tồn.
Thông thường, khi bắt đầu, bệnh nhân sẽ được điều trị để hạ nhãn áp về mức không gây đau. Tuy nhiên mức không gây đau chưa chắc đã là mức an toàn. Do vậy, bệnh nhân dễ chủ quan, bỏ theo dõi điều trị dẫn tới bệnh vẫn tiến triển gây tổn hại chất lượng thị giác trầm trọng.
Để bảo tồn chức năng thị giác, người bệnh glôcôm thậm chí cần nhớ lịch dùng thuốc, lịch khám lại hơn là các nhu cầu khác như mua sắm, giải trí.
Dự phòng bệnh Glôcôm
Các đối tượng cần sàng lọc
- Trên 40 tuổi (thường gặp ở nữ hơn nam).
- Có tiền sử gia đình.
- Mắc các tật khúc xạ: cận thị (glôcôm góc mở), viễn thị (glôcôm góc đóng).
- Có các bệnh lý mạch máu toàn thân: đái tháo đường, tăng huyết áp, hội chứng Raynaud (rối loạn vận mạch đầu chi).
- Đã được chẩn đoán hội chứng giả bong bao hoặc hội chứng phân rã sắc tố
- Sử dụng corticoid uống (Medrol điều trị các bệnh viêm khớp, tự miễn) và tra (Collydexa tự dùng khi ngứa, đỏ mắt) kéo dài.
Các đối tượng cần khám lại định kỳ
- Đã được chẩn đoán xác định có bệnh glôcôm.
- Đã được điều trị bằng laze/phẫu thuật cắt bè củng giác mạc/đặt van dẫn lưu tiền phòng.
- Đang theo dõi điều trị nội khoa bằng thuốc.