
Đục thủy tinh thể chữ Y
Thủy tinh thể phôi thai bắt nguồn từ ngoại bì bề mặt. Cuối tuần thứ 4, đầu tuần thứ 5 của thai kỳ, nang thị giác nguyên phát (primary optic vesicle) nhô ra từ não trước và tiến gần tới ngoại bì bề mặt. Chính sự tương tác này khiến cho lớp ngoại bì biến đổi từ một lớp tế bào biểu mô hình khối lập phương thành lớp tế bào hình cột. Lớp tế bào biểu mô dầy lên này chính là tấm thủy tinh thể (lens plate). Chẳng bao lâu sau, tấm thủy tinh thể này sẽ lõm xuống để tạo thành hố thủy tinh thể (lens pit).
Quá trình lõm xuống này cứ tiếp tục diễn tiến khiến cho lớp tế bào này dần hình thành một cái túi và chỉ thông thương ra ngoài qua cổ túi (stalk) vào cuối tuần thứ 5. Cuối cùng, phần cổ túi này cũng đứt ra và nang thủy tinh thể tách biệt khỏi lớp ngoại bì bề mặt. Cùng lúc đó, nang thị giác cũng lõm vào để tạo thành chén thị giác (optic cup). Lúc này, nang thủy tinh thể nằm gọn trong nang thị giác và tách biệt với nang thị giác bởi pha lê thể nguyên phát.

Trong quá trình lõm vào như vậy, đỉnh của các tế bào được hướng vào trong còn màng đáy lúc đầu có nhiệm vụ nâng đỡ ở ngoại bì bề mặt thì giờ đây lại nằm ra phía ngoài. Ban đầu màng đáy chỉ là một màng mỏng, sau đó nó phát triển và tăng sinh lên để tạo thành bao thủy tinh thể.
Giai đoạn thứ hai của sự phát triển thủy tinh thể được đánh dấu bởi sự kéo dài ra của các tế bào sợi thể thủy tinh. Các tế bào nằm ở phía trước của nang thể thủy tinh có nguồn gốc từ các tế bào ngoại biên của tấm thể thủy tinh thì phân chia theo chiều ngang và vẫn duy trì thành một lớp tế bào hình khối lập phương nằm dưới bao trước. Các tế bào nằm ở vùng xích đạo và cực sau thì lại phân chia đặc biệt hơn. Các tế bào nằm ở cực sau sẽ kéo dài ra sớm hơn so với các tế bào nằm gần xích đạo. Các tế bào này sẽ dài ra cho tới khi đỉnh của chúng sẽ chạm vào đỉnh của các tế bào biểu mô nằm phía trước, biến lòng của nang thủy tinh thể thành một khoang ảo. Các tế bào tự kéo dài này được gọi là sợi thủy tinh thể nguyên phát và chúng sẽ tồn tại suốt đời không thay đổi gọi là nhân phôi của thủy tinh thể. Các hiện tượng nói trên diễn ra vào khoảng cuối tuần thứ 7.

Các tế bào vùng xích đạo sẽ tăng sinh để tham gia tạo các sợi thủy tinh thể thứ phát, một quá trình diễn ra liên tục trong suốt đời sống con người. Các sợi thủy tinh thể thứ phát đầu tiên sẽ bao bọc lấy nhân phôi. Khi các tế bào trẻ hơn được sinh ra, chúng sẽ ép nhân của các tế bào già hơn vào trong và ra trước khiến cho thủy tinh thể có dạng cong. Dần dần, nhân của các tế bào nằm ở trong sâu sẽ bị vỡ ra và biến mất.
Sợi thủy tinh thể hoàn chỉnh có độ dài bằng nửa chu vi của thủy tinh thể, chúng gặp nhau ở mặt trước tạo thành khớp nối hình chữ Y. Các sợi có một đầu tận gần cực trước hơn thì đầu tận kia của nó sẽ xa cực sau hơn, do đó khớp nối phía sau có hình chữ Y ngược.


Các sợi thủy tinh thể thứ phát được tạo thành từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 8 sẽ tạo thành nhân thai (embryonic nucles) mà ta có thể quan sát thấy ngay dưới bao thủy tinh thể khi trẻ mới chào đời.
Nuôi dưỡng cho sự phát triển nhanh chóng của thủy tinh thể là động mạch pha lê thể. Đó là một nhánh của động mạch mắt nguyên thủy, đi vào gờ của nang thị giác, chạy ra phía trước tới mặt sau của thủy tinh thể vào khoảng cuối tuần thứ 5. Một hệ thống mạch máu quanh thủy tinh thể được thành lập (tunica vasculosa lentis) trong vài tuần sau đó và phát triển lên đỉnh điểm vào tuần 10-12. Mạng mạch máu này sẽ teo đi trong tháng thứ 4 và hoàn toàn biến mất khi được 8 ½ tháng.


Các lớp ở đĩa thị giác phân chia để tạo thành mống mắt và thể mi trong tháng thứ ba. Pha lê thể (Dịch kính) từ biểu mô thần kinh sẽ đặc lại trong khoảng giữa thể mi và xích đạo thủy tinh thể tạo ra hệ thống dây chằng thủy tinh thể (dây chằng Zinn) có nhiệm vụ treo thủy tinh thể vào thể mi. Các sợi dây chằng này có thể thấy trên mô học từ tháng thứ 5.

Video phôi thai học của mắt
Tôi có một kỷ niêm rất đặc biệt với video dưới đây về Phôi thai học của mắt. Cuốn video này có lẽ được sản xuất từ thập niên 70 do Hiệp hội nhãn khoa Hoa Kỳ thực hiện. Cha tôi, trước đây là Trưởng khoa mắt trẻ em tại Bệnh viện Mắt Trung Ương, bằng cách nào đó đã có một bản sao của video này khoảng cuối thập niên 80. Ông vẫn giữ nó như bảo bối và “truyền lại” cho tôi khi tôi có lẽ là hồi sắp thi đại học Y khoa. Sau đó tôi đã có cơ hội chuyển đổi từ băng video VHS sang đĩa CD và lưu lại từ đó đến nay. Tôi tin rằng cuốn video này ngoài giá trị về học thuật còn có giá trị lớn về mặt lịch sử.